Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

Các kỹ thuật SKLM


Các kỹ thuật SKLM

Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.

           v Kỹ thuật SKLM một chiều

       Dung môi chạy cùng một chiều từ đầu dưới bản mỏng lên đầu trên bản mỏng. Lưu ý các vết mẫu chấm trên bản mỏng không được ngập vào dung môi trong bình triển khai vì mẫu chất sẽ bị khuếch tán ngay lập tức ra dung môi làm cho các vết bị lem.

        v Kỹ thuật SKLM hai chiều

       Trong trường hợp chất phân tích có nhiều cấu tử nên kỹ thuật sắc ký một chiều không đủ độ tin cậy thì tiến hành thêm kỹ thuật sắc ký hai chiều để kết quả tách được rõ ràng hơn. Dùng loại bản 20 ´ 20, chấm chất phân tích ở góc bản cho vào bình sắc ký chạy hệ dung môi I, quay một góc 90°, cho vào bình sắc ký chạy hệ dung môi II.

        v Kỹ thuật SKLM điều chế (Preparative Chromatography)

       SKLM điều chế còn được gọi là kỹ thuật sắc ký chế hóa, thường dùng để tách các chất với lượng nhỏ và có Rf  cách xa nhau.
      Dùng kỹ thuật SKLM một chiều, bản mỏng có kích thước 20 ´ 20 cm, độ dày chất hấp phụ từ 0,5 – 1 mm.
      Hỗn hợp cần tách được chấm lên bản mỏng thành một đường liên tục. Sau đó nhúng bản vào dung dịch triển khai thích hợp. Trường hợp Rf các chất trong hỗn hợp phân tích rất gần nhau có thể tiến hành làm lại nhiều lần, trước mỗi lần chạy lại phải sấy khô bản mỏng.
      Phát hiện các vết tách bằng cách soi dưới đèn tử ngoại hoặc phun thuốc thử phát hiện ở một mép bản mỏng (thuốc thử không được phun hết bản mỏng vì sẽ phá vỡ cấu trúc của hợp chất để tạo phản ứng màu).
     Đánh dấu vùng muốn tách mẫu, cạo riêng từng vùng.
     Dùng dung môi thích hợp (có thể dùng dung môi triển khai) để lấy riêng mẫu chất ra khỏi chất hấp phụ, quá trình này gọi là phản hấp phụ.

             3.3.3.5  Ứng dụng của SKLM

       Kỹ thuật SKLM hiện nay vẫn là công cụ rất đắc lực trong ngành hóa hữu cơ, đặc biệt trong hóa học hợp chất thiên nhiên như:      
  Cho biết đặc điểm của hợp chất vừa trích ly, cô lập được (một chất tinh khiết sẽ có giá trị Rf  không đổi trong hệ dung môi xác định).
     Có thể tiên đoán sơ bộ là trong hỗn hợp chiết xuất ban đầu có bao nhiêu hợp chất và tính phân cực của hỗn hợp mẫu chiết.
    Để định hướng loại dung môi phù hợp cho sắc ký cột. Trước khi dùng sắc ký cột để tách một lượng lớn mẫu chất, các nhà nghiên cứu thường hay sử dụng SKLM để thăm dò tìm hệ dung môi thích hợp cho quá trình sắc ký cột.
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
    SKLM là công cụ rất đắc lực để theo dõi quá trình sắc ký cột, để nhận định các phân đoạn thu được từ sắc ký cột. Việc quan sát các vết trên bản mỏng rất quan trọng để có thể nhận định rằng phân đoạn đó là tinh khiết hay hỗn hợp hoặc để gộp các phân đoạn có cùng Rf với nhau.

Sắc ký lớp mỏng[7]


Sắc ký lớp mỏng[7]
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.

                3.3.3.1  Nguyên tắc

                   Sắc ký lớp mỏng (SKLM) còn gọi là sắc ký phẳng (planar chromatography), là kỹ thuật phân bố rắn - lỏng: Trong đó pha động là chất lỏng được cho đi ngang qua một lớp chất hấp phụ trơ như silica gel hoặc aluminoxide. Chất hấp phụ này được tráng thành một lớp mỏng, đều, phủ lên một nền phẳng như tấm kiếng, tấm nhôm hoặc tấm plastic. Do chất hấp phụ được tráng thành lớp mỏng nên phương pháp này được gọi là SKLM.
               Muốn thực hiện việc sắc ký, người ta cho mẫu cần phân tích hòa tan vào một dung môi dễ bay hơi, dùng vi quản để chấm một ít dung dịch mẫu chất này, thành một vết nhỏ gọn lên tấm lớp mỏng. Sấy nhẹ để đuổi phần dung môi hòa tan mẫu. Như vậy, mẫu chất chỉ còn là dạng bột khô ở trên tấm lớp mỏng. Đặt tấm lớp mỏng này theo chiều thẳng đứng trong một bình có chứa sẵn dung môi phù hợp. Dung môi sẽ bị lực mao quản hút di chuyển lên cao trong tấm bản, mẫu chất sẽ bị phân chia thành những vết riêng biệt. Các vết sẽ được xác định bằng những phương pháp vật lý (nhìn trực tiếp bằng mắt, soi dưới đèn tử ngoại,…) hoặc bằng những phương pháp hóa học (phun lên bản mỏng các loại dung dịch thuốc thử).
             Một chất tinh khiết sẽ chỉ cho một vết tròn, có giá trị Rf  không đổi trong một hệ dung môi xác định: trị số Rf  được tính như sau:



              Sắc ký lớp mỏng có một số ưu điểm sau:
§  Hiệu ứng tách tốt, nhạy hơn các phương pháp khác (nhạy hơn 20 lần so với sắc ký giấy).
§  Thời gian tiến hành nhanh.
§  Lượng mẫu phân tích nhỏ.
§  Có thể phân tích đồng thời mẫu chất và chất chuẩn đối chứng trong cùng một điều kiện phân tích.
§   Dụng cụ đơn giản           .   

            3.3.3.2  Chất hấp phụ dùng trong sắc ký lớp mỏng

       Trong SKLM, thường dùng các chất hấp phụ như silica gel, Al2O3, kieselguhr, celluloz,… Ngoài ra người ta còn trộn thêm chất kết dính hoặc chất chỉ thị phát huỳnh quang. Chất kết dính giúp cho chất hấp phụ bám tốt vào tấm kính hoặc tấm plastic, làm cho lớp mỏng bền, không bị trầy xướt.
Trong silica gel thương phẩm, nếu có tiếp vị ngữ “G” nghĩa là silica gel đó có trộn thêm chất kết dính sulfat canxi ngậm nước. Sự hiện diện của ion canxi hầu như không ảnh hưởng đến quá trình sắc ký.

            3.3.3.3  Dung môi triển khai

      Dung môi triển khai trong SKLM thường là một hỗn hợp có 2, 3 hoặc 4 loại dung môi khác nhau với tỷ lệ thích hợp. Ứng với mỗi loại hợp chất phân tích khác nhau sẽ có một số hệ dung môi thích hợp.
     Nên chọn dung môi có độ tinh khiết cao, có thể hòa tan được mẫu phân tích, tuy nhiên cũng không khuyến khích việc chọn dung môi có thể hòa tan tuyệt đối mẫu chất. Một mẫu chất cần sắc ký có thể chứa nhiều cấu tử khác nhau. Khả năng tách riêng các hợp chất này bằng SKLM tùy thuộc vào tỷ lệ phân phối của các hợp chất này giữa chất hấp phụ và dung môi khai triển. Muốn thay đổi khả năng tách, người ta thay đổi thành phần các dung môi hoặc thay đổi tỷ lệ các thành phần đó.
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
  Với mẫu sắc ký mà chưa biết thành phần hợp chất, chưa có tài liệu tham khảo thì phải làm một loạt thử nghiệm với các loại dung môi khác nhau, quan sát các vết. Một hệ dung môi triển khai phù hợp khi các vết có Rf  rõ, cách xa và trong giới hạn từ 0.3 đến 0.7, nếu Rf  thấp quá thì dung môi chưa đủ phân cực, nếu cao quá thì dung môi quá phân cực.

sắc ký cột cổ điển


   
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
  Ở sắc ký cột cổ điển, dung môi rửa cột được dùng với độ phân cực tăng dần. Dung môi phải tinh khiết vì những tạp chất lẫn vào dung môi thường làm thay đổi độ phân cực của dung môi đó, vì thế người ta thường chưng cất dung môi trước khi sử dụng. Hiện nay trên thị trường có bán loại silica gel đảo pha. Khi sử dụng silica gel này làm pha tĩnh, thì pha tĩnh có tính hấp thu tỷ lệ với tính thân dầu của hợp chất được sắc ký, cho nên pha động sử dụng thường là nước hoặc các hỗn hợp dung môi có chứa nước. Như vậy các thành phần phân cực trong hỗn hợp chất cần sắc ký sẽ được giải ly ra khỏi cột trước, còn các chất không phân cực sẽ ra sau. Phương pháp này được ứng dụng rất có hiệu quả đối với các hợp chất phân cực mạnh trong thực vật như saponin.
            Sự thay đổi từ dung môi này sang dung môi khác phải chuyển từ từ bằng cách pha tỷ lệ tăng dần hoặc giảm dần. Nếu tăng tính phân cực nhanh và đột ngột thì sẽ làm gẫy cột. Nguyên nhân do chất hấp phụ như Al2O3 hoặc silica gel khi được trộn với bất kỳ một loại dung môi nào cũng sẽ sinh ra nhiệt, nhiệt này làm cho dung môi bốc hơi một cách cục bộ, hơi sinh ra tạo nên bọt khí làm nứt gẫy cột, hiệu quả tách sẽ không cao.
           Vận tốc chảy của dung môi rửa cột cũng phải được điều chỉnh cho phù hợp, không được quá nhanh (sẽ không kịp cân bằng với chất hấp phụ) cũng không được quá chậm hoặc cho ngưng lại một thời gian vì sẽ làm cho chất tan bị khuyếch tán, ảnh hưởng đến hiệu quả tách.
           Tốc độ di chuyển của một chất trên mặt hấp phụ, phụ thuộc vào dung môi.
           Trên thực tế nhiều khi dùng những dung môi thông thường không tách được nên người ta thường dùng hỗn hợp nhiều dung môi.
Theo dõi quá trình giải ly cột:
§  Với các chất cần phân tích có màu, quá trình giải ly bằng sắc ký cột có thể được theo dõi bằng mắt thường. Tuy nhiên, đa số các hợp chất hữu cơ thiên nhiên đều không có màu nên việc hứng và kiểm tra các phân đoạn giải ly ra khỏi cột thường bằng phương pháp sắc ký lớp mỏng.
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
§  Thường trước khi tiến hành sắc ký cột, người ta dựa vào tài liệu tham khảo để chọn chất hấp phụ và dung môi. Tiến hành thăm dò bằng sắc ký lớp mỏng để tìm ra hệ dung môi tách tốt nhất. Khi đã chọn được chất hấp phụ và hệ dung môi thích hợp, việc ấn định thể tích của mỗi phân đoạn hứng hay thể tích của mỗi loại dung môi giải ly cột tùy thuộc vào thực nghiệm và kinh nghiệm của người thực hành.

Đưa mẫu chất cần phân tách vào cột


Đưa mẫu chất cần phân tách vào cột

            Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
Yêu cầu của việc đưa mẫu chất vào cột là phải phân tán mẫu chất thành một lớp mỏng đồng đều trên mặt cột bằng phẳng. Có nhiều phương pháp đưa mẫu chất vào cột như:
       v Cho thẳng dung dịch mẫu chất lên cột
   Hòa tan mẫu chất vào một lượng vừa đủ dung môi (càng ít càng tốt nhưng phải bảo đảm hòa tan hoàn toàn). Dung dịch mẫu chất có nồng độ càng đậm đặc mới nằm thành một lớp mỏng trên đầu cột. Cột đã ổn định, mở khóa cho dung môi chạy cho đến khi mặt cột hấp phụ vừa khô thì đóng lại. Dùng ống hút cho dung dịch mẫu chất chảy dọc thành cột. Mở khóa bên dưới cho dung dịch mẫu chất ngấm vào cột (không được để chất hấp phụ ở đầu cột bị khô). Khi toàn bộ lớp dung dịch mẫu chất đã ngấm hết vào cột, dùng ống hút lấy một ít dung môi rửa thành cột và cũng cho ngấm hết vào cột. Tiếp tục cho dung môi để bắt đầu quá trình giải ly.
       v Trộn mẫu chất cần phân tách với một lượng chất hấp phụ
         Trộn dung dịch mẫu chất với một lượng nhỏ chất hấp phụ cho thật đều, sấy khô rồi cho vào cột bằng cách rải thành một lớp đều đặn trên mặt cột.
       v Trong hai cách trên, cách cho thẳng dung dịch vào cột là gọn và nhanh hơn cả, nhưng phải bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật sau:
  • Chất thử hòa tan hoàn toàn.
  • Dung dịch chất thử phải nạp vào cột đều.
  • Khi toàn bộ chất thử ngấm hết vào cột, mới cho tiếp dung môi mới.
  • Cho dung môi nhẹ nhàng, không làm xáo động mặt cột. Nếu chất thử ngấm vào cột tạo thành những lớp có bề dày đều nhau là chứng tỏ kỹ thuật đảm bảo.
           3.3.2.4 Giải ly cột
              Tùy theo chất hấp phụ được dùng và yêu cầu tốc độ chảy của cột mà người ta có thể tiến hành giải ly cột bằng áp suất thường hoặc áp suất nén.
              Giải ly cột bằng áp suất thường: Nghĩa là dung môi chảy ra nhờ vào trọng lực. Cột áp suất thường có nhược điểm là chảy chậm, chỉ dùng cho các chất hấp phụ có kích thước hạt lớn.
              Giải ly cột bằng áp suất nén: Người ta thường cho một dòng khí nén (khí nitrogen hoặc không khí) vào đầu cột. Tốc độ dòng khí có thể được kiểm soát nhờ vào một van điều chỉnh. Cột dùng áp suất nén phải có nút bảo đảm kín ở miệng và có khóa hoặc dây buộc chặt vào miệng cột.
              Việc lựa chọn các phương pháp giải ly cột khác nhau tùy thuộc vào việc sử dụng kích thước hạt gel làm pha tĩnh và việc sử dụng áp lực để giải ly dung môi ra khỏi cột.
              Một hợp chất có thể bị chất hấp phụ giữ lại mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào độ phân cực của dung môi giải ly.

Đưa mẫu chất cần phân tách vào cột

             Yêu cầu của việc đưa mẫu chất vào cột là phải phân tán mẫu chất thành một lớp mỏng đồng đều trên mặt cột bằng phẳng. Có nhiều phương pháp đưa mẫu chất vào cột như:
       v Cho thẳng dung dịch mẫu chất lên cột
   Hòa tan mẫu chất vào một lượng vừa đủ dung môi (càng ít càng tốt nhưng phải bảo đảm hòa tan hoàn toàn). Dung dịch mẫu chất có nồng độ càng đậm đặc mới nằm thành một lớp mỏng trên đầu cột. Cột đã ổn định, mở khóa cho dung môi chạy cho đến khi mặt cột hấp phụ vừa khô thì đóng lại. Dùng ống hút cho dung dịch mẫu chất chảy dọc thành cột. Mở khóa bên dưới cho dung dịch mẫu chất ngấm vào cột (không được để chất hấp phụ ở đầu cột bị khô). Khi toàn bộ lớp dung dịch mẫu chất đã ngấm hết vào cột, dùng ống hút lấy một ít dung môi rửa thành cột và cũng cho ngấm hết vào cột. Tiếp tục cho dung môi để bắt đầu quá trình giải ly.
       v Trộn mẫu chất cần phân tách với một lượng chất hấp phụ
         Trộn dung dịch mẫu chất với một lượng nhỏ chất hấp phụ cho thật đều, sấy khô rồi cho vào cột bằng cách rải thành một lớp đều đặn trên mặt cột.
       v Trong hai cách trên, cách cho thẳng dung dịch vào cột là gọn và nhanh hơn cả, nhưng phải bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật sau:
  • Chất thử hòa tan hoàn toàn.
  • Dung dịch chất thử phải nạp vào cột đều.
  • Khi toàn bộ chất thử ngấm hết vào cột, mới cho tiếp dung môi mới.
  • Cho dung môi nhẹ nhàng, không làm xáo động mặt cột. Nếu chất thử ngấm vào cột tạo thành những lớp có bề dày đều nhau là chứng tỏ kỹ thuật đảm bảo.
           3.3.2.4 Giải ly cột
              Tùy theo chất hấp phụ được dùng và yêu cầu tốc độ chảy của cột mà người ta có thể tiến hành giải ly cột bằng áp suất thường hoặc áp suất nén.
              Giải ly cột bằng áp suất thường: Nghĩa là dung môi chảy ra nhờ vào trọng lực. Cột áp suất thường có nhược điểm là chảy chậm, chỉ dùng cho các chất hấp phụ có kích thước hạt lớn.
              Giải ly cột bằng áp suất nén: Người ta thường cho một dòng khí nén (khí nitrogen hoặc không khí) vào đầu cột. Tốc độ dòng khí có thể được kiểm soát nhờ vào một van điều chỉnh. Cột dùng áp suất nén phải có nút bảo đảm kín ở miệng và có khóa hoặc dây buộc chặt vào miệng cột.
              Việc lựa chọn các phương pháp giải ly cột khác nhau tùy thuộc vào việc sử dụng kích thước hạt gel làm pha tĩnh và việc sử dụng áp lực để giải ly dung môi ra khỏi cột.
              Một hợp chất có thể bị chất hấp phụ giữ lại mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào độ phân cực của dung môi giải ly.
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.

Sắc ký cột[1]


3.3.2 Sắc ký cột[1]
Trong sắc ký cột, chất hấp phụ hoặc chất làm nền cho pha cố định được nhồi trong các ống hình trụ gọi là “cột”. Tùy theo tính chất của chất được sử dụng làm cột mà sự tách trong cột sẽ xảy ra chủ yếu theo cơ chế hấp phụ (cột hấp phụ), cơ chế phân bố (cột phân bố), trao đổi ion (cột trao đổi ion),…Ở đây chúng tôi chỉ trình bày sắc ký cột hấp phụ.

 Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
         3.3.2.1 Nguyên tắc
Sắc ký hấp phụ được tiến hành trên một cột thủy tinh thẳng đứng gọi là “cột” với chất hấp phụ đóng vai trò pha tĩnh, dung môi rửa cột là pha động chảy qua pha hấp phụ.
Đối với mỗi chất riêng biệt trong pha hỗn hợp cần tách, tùy theo khả năng hấp phụ và khả năng hòa tan hòa của nó với dung môi rửa cột để lấy ra lần lượt trước hoặc sau.
            Chất hấp phụ trong sắc ký cột thường dung là Oxyt nhôm, silica gel, CaCO3, than hoạt tính, polyamid.
Sắc ký cột hở được tiến hành ở áp suất khí quyển. Pha tĩnh là chất hấp thu, mẫu chất cần phân tích được nạp lên đầu cột, phía trên là pha tĩnh. Pha động là các dung môi giải ly cột.
         3.3.2.2 Lựa chọn chất hấp thu, dung môi giải ly cột và cách nhồi cột
            Tùy thuộc vào tính phân cực của mẫu chất cần tách mà ta lựa chọn chất hấp thu cho phù hợp. Trong bài luận văn này tôi chọn chất hấp thu là silica gel.
             Trước khi tiến hành sắc ký cột phải tiến hành sắc ký bản mỏng để chọn ra dung môi giải ly phù hợp. Thứ tự dung môi giải ly sẽ bắt đầu từ dung môi không phân cực, dung môi ít phân cực, dung môi phân cực trung bình và sau cùng là dung môi có độ phân cực cao.
             Trước khi tiến hành sắc ký cột cần phải tìm ra cột có kích thước phù hợp. Điều này là rất quan trọng bởi vì hiệu quả của việc tách chất phụ thuộc nhiều vào lượng chất cần tách, chất hấp thu, kích thước cột. Ta có mối tương quan sau đây:
   Tỷ lệ giữa lượng mẫu cần tách và lượng chất hấp thu sử dụng: Các khảo sát thực nghiệm cho thấy muốn tách chất tốt thì trọng lượng của chất hấp thu phải lớn hơn 25 – 50 lần trọng lượng của mẫu sắc ký. Tuy nhiên, đối với những hỗn hợp mẫu chất khó tách riêng thì cần sử dụng lượng chất hấp thu nhiều hơn và ngược lại.
  Tỷ lệ giữa chiều cao chất hấp thu trong cột và đường kính trong của cột sắc ký: Thực nghiệm cho thấy, một mẫu chất muốn tách tốt thì chiều cao chất hấp thu nạp trong cột cần đạt tỷ lệ như sau: chiều cao chất hấp thu : đường kính trong của cột vào khoảng (10 : 1).

       Ø Chuẩn bị cột

      Rửa cột thật sạch, sấy khô, sau đó tráng cột vài lần với acetone.
      Cho bông gòn vào đáy cột (có thể cho thêm một lớp cát mịn sạch).
      Kẹp cột thẳng đứng trên giá sắt. 
      Cho chất hấp phụ vào cột thường gọi là nhồi cột
         vCó hai cách nhồi cột: nhồi cột ướt và nhồi cột khô.
      § Nhồi cột ướt: Dùng cho các chất hấp phụ có khả năng trương nở như silica gel, sephadex,… thì phải ngâm trong dung môi một thời gian trước khi cho vào cột để tránh bị nứt cột. Lắc, trộn đều bột hấp phụ với dung môi tạo thành một hỗn dịch, rót vào cột, chất hấp phụ sẽ lắng tự nhiên xuống đáy cột. Hỗn dịch dung môi và chất hấp phụ không nên quá sệt khiến bọt khí bị giữ trong cột và cũng không được quá lỏng để phải rót nhiều lần vào cột. Chú ý trong quá trình nhồi cột, dung môi vẫn liên tục chảy đều ra khỏi cột và không được để khô dung môi trong cột. Sau khi nhồi hết chất hấp phụ vào cột dùng dung môi hứng được tiếp tục rót vào cột và cho chảy liên tục một thời gian để cột hấp phụ được hoàn toàn ổn định. Mặt thoáng trên đầu cột phải nằm ngang, người ta cho thêm một lớp cát hoặc bông để không làm xáo trộn mặt.
    § Nhồi cột khô: Dùng cho các chất hấp phụ không có khả năng trương nở như Al2O3, CaCO3. Chất hấp phụ được nhồi từ từ vào cột ở dạng khô bởi một phễu có cuống dài. Dùng một que bằng gỗ hoặc cao su gõ nhẹ và đều chung quanh cột theo chiều từ dưới lên để bột xuống đều đặn. Khi chất hấp phụ được cho hết vào cột mới rót dung môi vào và cho chảy liên tục một thời gian để cột được ổn định và từ lúc này trở đi thì không được để khô dung môi trong cột.
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.

Lịch sử về phương pháp sắc ký


3.3 Sắc ký [1],[4]
3.3.1 Lịch sử về phương pháp sắc ký[3]
Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
Nhà bác học Nga Mikhail Xemenovites Txvet là người đã sáng lập ra phương pháp sắc ký. Là một nhà thực vật học lỗi lạc và nhà hóa học xuất sắc, một học giả có trình độ uyên bác, một nhà quan sát tinh tế và một nhà thực nghiệm sáng tạo. M.X.Txvet đã phát minh ra nguyên lý cơ bản của tự nhiên và với thành tựu khoa học của mình, ông đã vượt lên trước thời đại quá xa.
Ông thấy rằng khi cho nước lên lá xanh đã được chiết bằng ete đi qua giấy lọc thì thấy những dãi màu khác nhau hiện lên rõ rệt – dãi màu vàng và dãi màu lục.
Thế là lần đầu tiên, năm 1901 đã xác định được rằng trên cơ sở tương tác khác nhau của các cấu tử với bề mặt, ta có thể tách hỗn hợp thành các cấu phần và lấy chúng ra ở dạng tinh khiết.
Hai năm sau kể từ những thí nghiệm đầu tiên, trong báo cáo đọc ngày 08 tháng 03 năm 1903, tại phân ban sinh học của hội các nhà khoa học tự nhiên varsaxa, M.X.Txvet đã thông báo về việc tách diệp lục tố khi lọc dung dịch ligoin của nó qua bột canxi cacbonat. Lúc này M.X.Txvet đã kết luận về khả năng xây dựng một phương pháp mới là “tách vật lý các chất vô cùng khác nhau trong các chất lỏng hữu cơ”. Cơ sở của phương pháp phân tích, theo nhận xét sâu sắc của các nhà sáng lập ra sắc ký, dựa trên tính chất cơ bản nhất của các chất là “tạo thành những hợp chất hấp phụ vật lý với các chất rắn hữu cơ và vô cơ vô cùng khác nhau”. Những lời nói cách đây gần ba phần tư thế kỷ ngày nay vẫn vang lên đầy tính hiện đại. M.X.Txvet đã đánh giá chính xác thực chất của hiện tượng.
Thuật ngữ “sắc ký” chính do ông nghĩ và đưa ra. Tên gọi môm na của phương pháp là (ghi màu) không phải là tình cờ mà lại có liên quan một cách khá khôi hài với tên gọi Txvet (vì Txvet tiếng Nga có nghĩa là màu). Ông đã so sánh sự phân bố các sắc tố khác nhau trên cột canxi cacbonat rắn với các tia có màu sắc khác nhau trong phổ. Ông gọi cảnh tượng này là sắc phổ, còn phương pháp ông gọi là sắc ký. Lúc bấy giờ M.X.Txvet đã thấy trước khả năng ứng dụng nguyên tắc tách do ông tìm ra chẵng những đối với các hợp chất có màu, mà còn đối với hợp chất không màu.Để có thêm thông tin về các dịch vụ thu hẹp âm đạonâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo, …  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.